Thứ Hai, 24 tháng 11, 2014

Phân đoạn thị trường du lịch theo hành vi thái độ người tiêu dùng


Phân đoạn theo hành vi thái độ là phân đoạn dựa trên cường độ sử dụng, tình trạng sử dụng, tiềm năng sử dụng, lợi ích nhận được và sự trung thành với nhà cung cấp dịch vụ.


Đây là tiêu thức tương đối khó phân loại với thị trường sản phẩm tour du lịch trăng mật. Đặc tính của sản phẩm này là khách hàng có xu hướng sử dụng một hoặc vài lần trong đời. Tuy nhiên nó lại mở ra cơ hội cho công ty để khai thác nhóm khách hàng cho tour du lịch gia đình trong tương lai vì thế cần đặc biệt lưu ý tới quá trình tạo ấn tượng về dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng đối với sản phẩm.


Theo tiêu chí này thị trường được phân thành khách hàng đã sử dụng dịch vụ khác của VPTOUR và khách hàng đi tour của VPTOUR lần đầu từ đó có những chiến lược ưu đãi khác nhau đối với mỗi đối tượng.


Ngoài ra có sự khác biệt về nhu cầu sử dụng tour đối với hai đối tượng dân cư sống ở đô thị và nông thôn. Đối với dân cư nông thôn, hầu như họ không có nhu cầu đi du lịch trăng mật sau khi cưới. Do đó khai thác thị trường này không đem lại hiệu quả.


Năm 2009, 59,2% dân số của Hà Nội sống ở nông thôn, 40,8% dân số sống ở đô thị. Tỷ lệ dân số đô thị của Hà Nội cao hơn tỷ lệ chung của cả nước 11,2% (40,8% so với 29,6%) và cao hơn đồng bằng sông Hồng 11,6%.


Dựa trên đặc điểm của VP – TOUR và các phân đoạn thị trường ở trên, thị trường mục tiêu cho sản phẩm “tour du lịch trăng mật” của VP – Tour sẽ là:


- Nhóm khách hàng có thu nhập dưới 10 triệu


- Nhóm khách hàng vừa kết hôn


- Nhóm khách hàng công sở


- Nhóm khách hàng chưa sử dụng dịch vụ của VPTOUR lần nào




Phân đoạn thị trường du lịch theo hành vi thái độ người tiêu dùng
Resort in Vietnam

Mối liên hệ giữa môi trường khoa học – công nghệ và ngành du lịch


Khoa học kỹ thuật và công nghệ có ảnh hưởng to lớn tới sản xuất, kinh doanh và cả sự tiêu thụ. Các phát minh mới, các tiến bộ của khoa học kỹ thuật sẽ làm ra các sản phẩm mới, đồng thời làm này sinh các nhu cầu mới và làm triệt tiêu các công nghệ cụ hay nhu cầu cũ. Ví dụ, phát minh ra máy ảnh kỹ thuật số gây ảnh hưởng năng cho việc chụp hình dùng phim cổ điển, máy photo copy và máy tính làm biến mất những chiếc máy chữ cũ kỹ…


Khoa học kỹ thuật và công nghệ cũng giúp chúng ta khám phá các khả năng vô tận như: công nghệ sinh học, robot, nghiên cứu vũ trụ….


Ngày nay, để thành công, các công ty phải không ngừng đầu tư cho R&D (Research and Development: Nghiên cứu và Phát triển) để phát minh hay tiếp cận và vận dụng các công nghệ và kỹ thuật mới để không ngừng cải tiến sản phẩm, nâng cao tính cạnh tranh.


Ở Việt Nam, công nghệ còn lạc hậu, nên nguy cơ tụt hậu là rất lớn, vì thế chúng ta cần đầu tư hơn cho giáo dục và thu hút chất xám để có thể phát triển một đội ngũ chuyên gia kỹ thuật và công nghệ giỏi.


Công nghệ là giới hạn thường xuyên của thay đổi. Những công ty khách sạn, lữ hành cần phải theo dõi hai khía cạnh của môi trường công nghệ. Thứ nhất là việc công nghệ có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh. Công nghệ máy tính đã phát triển mạnh mẽ trong ngành. Kết quả là không ít hãng hàng không, khách sạn và lữ hành đã cung cấp những dịch vụ tốt hơn và giành được nhiều lợi thế do công nghệ thông tin đem lại.


Khía cạnh thứ hai chính là tác động của công nghệ tới khách hàng. Con người bị tràn ngập bởi những thay đổi công nghệ. Những hệ thống giải trí tinh vi tại nhà bao gồm video, phim ảnh, máy tính xác tay… đã thay thế cho những chuyến du lịch trăng mật và giải trí ngoài trời.


Song ở khía cạnh khác, công nghệ cũng là người bạn. Công nghệ thiết bị gia dụng đã giảm bớt thời gian làm việc nhà và tạo ra thời gian nhàn rỗi cho du lịch và giải trí ngoài trời.




Mối liên hệ giữa môi trường khoa học – công nghệ và ngành du lịch
Resort in Vietnam

Phát triển Vườn Quốc gia Phong-Nha Kẻ Bàng trên quan điểm bền vững


        Về kinh phí cho việc khảo sát chi tiết, xây dựng và lắp đặt hệ thống đường, điện cũng như công tác bảo vệ bảo tồn sau khi đưa vào phục vụ du lịch là rất lớn, đòi hỏi phải có sự quan tâm của Tỉnh và các Bộ, Nghành liên quan.        Phải tham khảo ý kiến của các nhà khoa học Địa Lý, Địa chất,Môi trường và sinh học… để xây dựng các biện pháp bảo vệ, bảo tồn trước sau khi đưa vào phát triển du lịch, cũng như đánh giá được một cách chính xác những tác động môi trường tích cực và tiêu cực của các hoạt động này đem lại.


        Ý thức của một số người dân chưa cao, và đây là điều đáng lo ngại. Tại khu vực Di sản Phong Nha-Kẻ Bàng,hàng vạn dân đang sinh sống,trình độ canh tác,văn hóa,hiểu biết rất hạn chế.Đó lại chính là lực lượng trực tiếp xác lập việc bảo vệ di sản.Vì thế,việc huy động chính nhằm đưa vùng Phong Nha-Kẻ Bàng làm đốitượng chủ yếu để tham gia vào lễhội là cách tốt nhất để bà con hiểu giá trị di sản.        


        Các cơ quan về tổ chức phát triển du lịch tại các khu bảo tồn thiên nhiên phải tư vấn cho chính quyền địa phương về cơ chế chính sách và triển khai các hoạt độngdu lịch trong khu bảo tồn; điều hòa các mốiquan hệ kinh tế giữa các đơn vị, cơ quan kinh doanh khai thác du lịch với các đơn vị cơ quan có quyền sử dụng tài nguyên sinh thái và cộng đồng dân cư địa phương; tham gia thẩmđịnh các dự án du lịch hoặc cơ quan chủ quản để làm công tác bảo tồn,tôn tạo. Sự phối hợp này thể hiện tính liên ngành tốt trong phát triển bền vững.


        Phát triển một số lĩnh vực: thứ nhất là thị trường khai thác khácquốc tế từ ASEAN, Tây Âu, Trung quốc, Nhật Bản…tuy nhiên vẫn phải quan tâm thị trường nội địa theo lợi thế riêng của từng vùng để thu hút khách. Thứ hai là đầu tư phát triển dulịch phảikết hợp với nguồn vốn trong và ngoài nước,ưu tiên các khu du lịch chuyên đề; thực hiện xã hội hoá trong việc đầu tư, bảo vệ tôn tạo các khu di tích,cảnh quan môi trương,các lễ hội…


Xúc tiến tuyên truyền, quảng bávề du lịchphải phối hợp chặt chẽ, kết hợp cả trong và ngoài nước.


Hội nhập quốc tế về du lịch, đó là sự củng cố và tham gia vào các tổ chức quốc tế như WTO,khuyến khích thu hút vốn từ nước ngoài vào các khu du lịch,dự án du lịch…


Phát triển các vùng du lịch với lợi thế so sánh của vùng đó.


 




Phát triển Vườn Quốc gia Phong-Nha Kẻ Bàng trên quan điểm bền vững
Resort in Vietnam

Thứ Năm, 20 tháng 11, 2014

Những điều ít ai biết về Khuê Văn Các


 


Vị trí: Nằm trong Văn Miếu – Quốc Tử Giám thuộc quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Đặc điểm: Khuê Văn Các được xây dựng năm 1805 do Tổng trấn Bắc thành là Nguyễn Văn Thànhchủ sự.


Khuê Văn Các là một lầu vuông 2 tầng được làm bằng gỗ và gạch soi bóng xuống Thiên Quang tinh (giếng trời trong sáng). Tầng một của Khuê Văn Các có 4 cột trụ bằng gạch chạm hình các đám mây. Đế cột hình vuông được làm bằng gạch Bát Tràng. Tầng hai làm bằng gỗ được trụ bằng 4 cột và có 4 cửa sổ với các tia như tia nắng mặt trời tỏa ra 4 hướng. Tầng này tượng trưng cho chòm sao Khuê – sao chủ đề văn học – đang tỏa sáng lấp lánh. Khuê Văn Các đã trở thành một công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo – biểu tượng của văn học Việt Nam. Ngày nay Khuê Văn các là biểu tượng của thủ đô Hà Nội.


Bố cục của toàn thể Văn Miếu như vậy muộn nhất là cũng có từ đời Lê (thế kỷ 15 – thế kỷ 18). Riêng Khuê Văn Các mới được dựng khoảng đầu thế kỷ 19, nhưng cũng nằm trong quy hoạch tổng thể vốn có của những Văn Miếu (như Văn Miếu ở Khúc Phụ, Trung Quốc, quê hương của Khổng Tử, có đủ Ðại Trung Môn, Khuê Văn Các, Ðại Thành Môn, Ðại Thành Ðiện, bia tiến sĩ…). Khuê Văn Các ở Văn Miếu Hà Nội thường là nơi tổ chức bình các bài văn thơ hay của các sĩ tử.


Sau khu Ðại Bái vốn là trường Quốc Tử Giám đời Lê, một loại trường đại học đương thời. Khi nhà Nguyễn rời trường này vào Huế thì nới đây chuyển làm đền Khải Thánh thờ cha và mẹ Khổng Tử, nhưng đền này đã bị hư hỏng trong chiến tranh. Văn Miếu là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội. 


 


 




Những điều ít ai biết về Khuê Văn Các
Resort in Vietnam

Thứ Tư, 19 tháng 11, 2014

Động Hàm Rồng bao la giữa núi rừng Tây Bắc


Vị trí: Động Hàm Rồng thuộc địa phận huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai, cách thị trấn Mường Khương khoảng gần 2km.


Đặc điểm: Đến đây, du khách sẽ có dịp được chiêm ngưỡng vẻ đẹp huyền bí giữa một vùng núi rừng bao la, rộng lớn.


Từ Tp. Lào Cai, theo quốc lộ 4D ngược lên phía đông bắc khoảng 50km, du khách sẽ đến địa phận huyện Mường Khương.


Nhìn từ xa, các thôn, bản ở huyện Mường Khương thấp thoáng xen lẫn trong màu xanh bạt ngàn của núi rừng trùng điệp. Càng đến gần, du khách càng thấy như vẽ ra trước mắt mình một bức tranh vô cùng sinh động: Hòa lẫn trong khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp đó là những nếp nhà sàn, nhà trệt xinh xắn; những ngôi trường lấp ló qua những lùm cây, những cánh đồng lúa Tùng Lâu – Na Bủ rộng mênh mông bát ngát, trải dài như vô tận… và nổi bật lên là quần thể hang động Hàm Rồng – một điểm du lịch nổi tiếng đã được xếp hạng di tích Quốc gia.


Để đến với quần thể hang động Hàm Rồng, du khách sẽ phải men theo dòng suối Tùng Lâu với cửa chính vào động là đầu nguồn của dòng suối. Dòng suối này quanh năm uốn mình trên từng khe núi và tạo thành dòng thác “Pao Tủng” – một thắng cảnh tuyệt diệu của cả vùng Mường Khương.


Quần thể hang động Hàm Rồng bao gồm 4 hang, đó là: hang Lũng Pâu, hang Nắm Oọc, hang Mười Ngựa và khu hang động Cao Sơn; trong đó có 2 hang chính nối liền nhau với tổng chiều dài khoảng 750m.


Hang Lũng Pâu thuộc xã Tung Chung Phố và nằm sâu trong lòng dãy núi đá vôi sừng sững. Chính nơi này vào năm 1959 đã phát hiện ra trống đồng Pha Long (thuộc Hêgơ I) nổi tiếng, có niên đại cách đây gần 4.000 năm.


Hang Nắm Oọc thuộc xã Nấm Lư có nhiều nhũ đá, tượng bụt kỳ ảo và nơi đây thường tổ chức các lễ hội dân gian đặc sắc của người Nùng và một số thôn, bản khác trong vùng


Hang Mười Ngựa hay còn gọi là hang Sừ Ma Tủng thuộc xã Tả Ngải Chồ -  tụ điểm hoạt động của bọn phỉ Châu Quang Lồ khét tiếng. Phỉ Châu Quang Lồ từng là tay sai của thực dân Pháp đã bị quân dân địa phương và các đơn vị bộ đội chủ lực tiêu diệt nhằm góp phần giải phóng khu Pha Long năm 1952.


Khu hang động Cao Sơn nằm ẩn mình trong lòng dãy núi đá vôi chập chùng cao chót vót. Bên trong hang có rất nhiều các hình thù đẹp mắt bằng đá, trông giống như những ô ruộng bậc thang, các nông cụ sản xuất, những chiếc bàn, ghế… Nơi đây không chỉ là chứng tích “phơi thây xác giặc” của quân dân địa phương đã từng chống bọn giặc phong kiến phương Bắc với huyền thoại “khe diệt Hán” đã in đậm trong tâm thức nhân dân mà còn là căn cứ hoạt động cách mạng chống Pháp, phỉ ở Mường Khương và là khu vực phòng thủ an ninh – quốc phòng bảo vệ vững chắc biên cương Tổ quốc thời kỳ đất nước đổi mới hiện nay.


Đến với quần thể hang động Hàm Rồng, du khách sẽ có dịp được chiêm ngưỡng vẻ đẹp huyền bí giữa một vùng núi rừng bao la, rộng lớn.




Động Hàm Rồng bao la giữa núi rừng Tây Bắc
Resort in Vietnam

Thứ Ba, 18 tháng 11, 2014

SaPa – địa điểm du lịch hấp dẫn


Nằm ở phía tây bắc của Tổ quốc, Sa Pa là một huyện vùng cao của tỉnh Lào Cai, một vùng đất khiêm nhường, lặng lẽ nhưng ẩn chứa bao điều kỳ diệu của cảnh sắc thiên nhiên. Phong cảnh thiên nhiên của Sa Pa được kết hợp với sức sáng tạo của con người cùng với địa hình của núi đồi, màu xanh của rừng, như bức tranh có sự sắp xếp theo một bố cục hài hoà tạo nên một vùng có nhiều cảnh sắc thơ mộng hấp dẫn.


Chìm trong làn mây bồng bềnh thị trấn Sa Pa như một thành phố trong sương huyền ảo, vẽ lên một bức tranh sơn thủy hữu tình. Nơi đây, có thứ tài nguyên vô giá đó là khí hậu trong lành mát mẻ, mang nhiều sắc thái đa dạng. Nằm ở độ cao trung bình 1500m – 1800m, nên khí hậu Sa Pa ít nhiều lại mang sắc thái của xứ ôn đới, với nhiệt độ trung bình 15-18°C. Từ tháng 5 đến tháng 8 có mưa nhiều. 


Trước kia, Sa Pa là một cao nguyên nhỏ mang tên Lồ Suối Tủng. Năm 1897, chính quyền thuộc địa Pháp quyết định mở một cuộc điều tra về người dân tộc thiểu số miền núi vùng cao. Những đoàn điều tra đầu tiên đến Lào Cai vào năm 1898.


Mùa đông năm 1903, trong khi tiến hành đo đạc xây dựng bản đồ, đoàn thám hiểm của Sở địa lý Đông Dương đã khám phá ra cảnh quan cao nguyên Lồ Suối Tủng và làng Sa Pả. Sự kiện này đánh dấu việc ra đời của thị trấn Sa Pa.


Năm 1905, người Pháp đã thu thập được những thông tin đầu tiên về địa lý, khí hậu, thảm thực vật… Sa Pa bắt đầu được biết tới với không khí mát mẻ, trong lành và cảnh quan đẹp. Năm 1909, một khu điều dưỡng được xây dựng. Năm 1917, một văn phòng du lịch được thành lập ở Sa Pa và một năm sau, người Pháp bắt đầu xây dựng những biệt thự đầu tiên. Năm 1920, tuyến đường sắt Hà Nội – Lào Cai hoàn thành, Sa Pa được xem như thủ đô mùa hè của miền Bắc. Tổng cộng, người Pháp đã xây dựng ở Sa Pa gần 300 biệt thự.


 




SaPa – địa điểm du lịch hấp dẫn
Resort in Vietnam

Thứ Hai, 17 tháng 11, 2014

Những cảnh đẹp của Phú Thọ


Núi Thắm


Vị trí: Thuộc huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.


Đặc điểm: Núi Thắm còn có tên là núi Đầu Rồng, dài khoảng 4km chạy dọc lên khu du lịch Thanh Ba.


Trên đỉnh núi có một cái ao nhỏ gọi là ao Tiên, nước trong xanh, không bao giờ cạn. Xung quanh núi Thắm là hàng trăm ngọn đồi thoai thoải nằm gần kề nhau, nhấp nhô như bát úp. Trên vùng đồi này đã được quy hoạch trồng các loại cây công nghiệp như chè, sơn, trẩu… Nơi đây đã mọc lên nhà máy chè, nhà máy xi măng, rượu, phân lân và những trại chăn nuôi trâu, bò. Núi Thắm vừa là một thắng cảnh đẹp vừa là một trung tâm kinh tế của vùng trung du.


Vườn quốc gia Xuân Sơn


Vị trí:Nằm ở điểm cuối cùng của dãy Hoàng Liên Sơn, Vườn quốc gia Xuân Sơn thuộc địa bàn xã Xuân Sơn, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ.


Đặc điểm: Vườn quốc gia Xuân Sơn đa dạng sinh thái, đa dạng sinh học cao, đa dạng địa hình kiến tạo nên đa dạng cảnh quan.


Với tổng diện tích 15.048 ha, vùng đệm 18.639 ha, trong đó khu bảo vệ nghiêm ngặt là 9.099 ha, Xuân Sơn là vườn quốc gia duy nhất có rừng nguyên sinh trên núi đá vôi (2.432ha). Theo thống kê ban đầu, Xuân Sơn có 726 loài thực vật bậc cao, hệ thực vật có các loài: re, dẻ, sồi và mộc lan chiếm ưu thế. Ngoài ra, còn có các loài tiêu biểu cho khu vực Tây Bắc như: táu muối, táu lá duối, sao mặt quỷ và chò chỉ, chò vảy, nghiến, dồi, vầu đắng, kim giao (rừng chò chỉ ở Xuân Sơn là một trong những rừng chò chỉ đẹp và giàu nhất miền Bắc).


 Tại đây hiện có 365 loài động vật, trong đó có 46 loài ghi trong sách đỏ Việt Nam và 18 loài ghi trong sách đỏ Thế giới. Các loài đặc trưng cho hệ động vật Tây Bắc như: Voọc xám, vượn chó, cày bạc má, sóc bụng đỏ đuôi trắng, gấu, báo,… về chim có: gà lôi, gà tiền, đại bàng đất,… riêng sơn dương có nhiều nhất toàn quốc.


Ngoài sức hấp dẫn của hệ động thực vật phong phú, Xuân Sơn còn có nhiều cảnh quan thiên nhiên kỳ thú. Nằm trong quần thể vườn quốc gia Xuân Sơn có ba đỉnh núi cao trên 1.000m là: núi Voi, núi Ten và núi Cẩn với hàng trăm hang động; sông suối như: suối Lấp, suối Thang; và nhiều thác nước có độ cao trên 50m, che phủ hang, hốc đá, hoà quyện màu thác bạc với màu xanh của rừng già làm cho phong cảnh vừa hùng vĩ vừa thơ mộng.


Do quá trình phong hoá, thuỷ hoá tạo thành Xuân Sơn có 16 hang động đá với thạch nhũ đẹp, đa dạng, tạo nên muôn hình vạn trạng. Vào thăm hang động ở đây, du khách không khỏi ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của các nhũ đá rủ xuống thành muôn hình kỳ lạ.


Ðộng Tiên là một hang ngầm trong lòng núi đá cẩm thạch dài 10km. Trong hang có đường thông gió lên thẳng đỉnh núi, làm cho không khí trong lành mát dịu. Hồ nước có nhiều loài cá lạ hấp dẫn.


Một ngày ở Xuân Sơn khí hậu thay đổi 4 mùa: buổi sáng mát mẻ, trong lành như mùa xuân; buổi trưa ấm áp như mùa hè; buổi chiều hiu hiu như mùa thu; buổi tối trời se lạnh.


Với tiềm năng du lịch to lớn thuận lợi để phát triển nhiều loại hình du lịch. Xuân Sơn đang là điểm thu hút du khách trong và ngoài nước.




Những cảnh đẹp của Phú Thọ
Resort in Vietnam

Chủ Nhật, 16 tháng 11, 2014

Dân ca quan họ, Bắc Ninh


Quan họ (còn được gọi là Quan họ Bắc Ninh, Quan họ Bắc Giang hay Quan họ Kinh Bắc…) là những làn điệu dân ca của vùngđồng bằng Bắc Bộ, Việt Nam; tập trung chủ yếu ở vùng Kinh Bắc - tức Bắc Ninh  Bắc Giang. Tên gọi Quan họ Bắc Ninh không có nghĩa tỉnh Bắc Ninh là chủ thể chính của thể loại dân ca này, Bắc Ninh hay Kinh Bắc được hiểu là tỉnh Bắc Ninh cũ, ngày 10 tháng 10 năm 1895, tỉnh Bắc Giang tách khỏi tỉnh Bắc Ninh. Tuy nhiên, loại hình dân ca này chủ yếu phát triển mạnh ở vùng ven sông Cầu, một ranh giới tự nhiên của hai tỉnh.[1] Theo các nhà nghiên cứu, tên gọi di sản này có thể thay đổi theo thời gian, do các chủ thể văn hóa tạo ra.


Ngày 30 tháng 9 năm 2009, tại kỳ họp lần thứ 4 của Ủy ban liên chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (từ ngày 28 tháng 9 tới ngày 2 tháng 10 năm 2009), quan họ đã được công nhận là di sản phi vật thể đại diện của nhân loại sau nhã nhạc cung đình Huế, không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên và cùng đợt với ca trù.


Nguồn gốc


Ý nghĩa từ “Quan họ” thường được tách thành hai từ rồi lý giải nghĩa đen về mặt từ nguyên của “quan” và của “họ”. Điều này dẫn đến những kiến giải về Quan họ xuất phát từ “âm nhạc cung đình”, hay gắn với sự tích một ông quan khi đi qua vùng Kinh Bắc đã ngây ngất bởi tiếng hát của liền anh liền chị ở đó và đã dừng bước để thưởng thức (“họ”). Tuy nhiên cách lý giải này đã bỏ qua những thành tố của không gian sinh hoạt văn hóa quan họ như hình thức sinh hoạt (nghi thức các phường kết họ khiến anh hai, chị hai suốt đời chỉ là bạn, không thể kết thành duyên vợ chồng), diễn xướng, cách thức tổ chức và giao lưu, lối sử dụng từ ngữ đối nhau về nghĩa và thanh điệu trong sinh hoạt văn hóa đối đáp dân gian.


 




Dân ca quan họ, Bắc Ninh
Resort in Vietnam

Thứ Bảy, 15 tháng 11, 2014

Bánh đậu xanh Hải Dương


Biết chế biến ra các món ăn tinh khiết hợp khẩu vị là một phương diện văn hoá, hơn thế nữa còn là biểu hiện văn minh của mỗi địa phương, mỗi dân tộc. Hiện nay báo ảnh nhiều nước thường dành một trang in mầu trang trọng giới thiệu các món ăn tiêu biểu của dân tộc mình. ở nước ta, tục chế biến các món ăn truyền thống hình thành từ rất sớm, nhất là các loại bánh.


Truyền thuyết cho hay, tục làm bánh chưng, bánh dày đã có từ thời Hùng Vương. Chế biến các loại bánh từ lâu đã trở thành nghề nghiệp cuả nhiều gia đình trong từng địa phương. Trong số đặc sản của tỉnh Đông xưa phải kể đến bánh đậu xanh của thành phố Hải Dương. Nguyên liệu để chế biến nên loại bánh này không phải khai thác từ đâu xa mà lấy ngay từ hoa mầu của đồng nội, hương vị của vườn quê. Thành phần của bánh cũng đơn giản : Đậu xanh, đường kết tinh, mỡ lợn, tinh dầu của hoa bưởi. Những nguyên liệu này đều phải chọn lọc chế biến tinh khiết. Bốn nguyên liệu trên pha trộn với nhau theo một tỉ lệ hợp lý, vượt tỉ lệ đó bánh sẽ kém chất lượng. Giấy gói bánh, mầu sắc của nhãn phải nghiên cứu để bánh giữ được lâu và tôn vẻ đẹp của bánh : Bánh từ lâu đã được đóng theo quy ổn định : 10 khẩu mỏng xếp 5 hàng (8,5 x 3,2 x1,1cm) nặng 45 gam, gần đây đã có những cải tiến, nhưng quy cách của khẩu không thay đổi. Bánh đậu xanh Hải Dương ra đời tại thị xã Hải Dương vào đầu thế kỷ 20, nổi tiếng có hiệu Bảo Hiên, Cự Hương, Mai Phương. Mai Hoa…. Bánh đậu xanh Hải Dương nhãn hiệu rồng vàng đã có mặt  hầu hết các tỉnh Bắc kỳ bốn lần tham gia hội chợ đều được giải. Người Hải Dương xa nhà nhìn thấy bánh đậu xanh như nhìn thấy quê hương, lòng rạo rực nhớ quê. Khách muôn phương thấy bánh đậu xanh lại nhớ lại một thành phố nhỏ êm đềm, cư dân thuần hậu, giữa đồng bằng châu thổnơi ấy có đường sắt, đường bộ, đường thuỷ đi qua. Những người luống tuổi hômnay vẫn còn trong ký ức hình ảnh và hương vị bánh đậu xanh Bảo Hiên và Cự Hương xưa: Chủhiệu Bảo Hiên là bà Nguyễn Thị Nhung, mở hàng làm bánh từ đầu thế kỷ khoảng năm 1922, khituổi còn đôi mươi. Làm bánh đậu là nghề bà được thừa kế gia đình từ thủa nhỏ . Tuy chồng mất sớm để lại một đàn con nhỏ. Bà Nhung vẫn đảm đương một cửa hiệu có trên 30 thợ, làm việc một ngày 2 kíp, sản xuất hàng tạ bánh mỗi ca. Buôn bán lấy lòng tin làm đầu. Sáng sáng hàng chục khách đến nhận hàng, chỉ cần ghi số lượng, chiều tối hoặc ngày sau thanh toán. Khi bánhmất phẩm chất bị huỷ ngay để giữ gìn tín nhiệm.Nguyên liệu mỗi lần nhận hàng toa tầu đườngkính kết tinh loại tốt từ Tuy Hoà ra, từng thuyền lớn chở đậu xanh từ Lục Nam xuống và hàng tạ mỡ khổ từ lò mổ chở tới. Tinh dầu hoa bưởi thì nhà tự chưng cất lấy.Cửa hiệu tấp nập hoạt động nhịp nhàng suốt ngày đêm. Mọi việc từ kỹ thuật, giao dịch quản lý, kế toán, điều hành công nhân.. chỉ có một phụ nữ với một quyển sổ, một bàn tính cùng đàn con líu ríu bên mình.Với bàn tay tài hoa và khối óc năng động ấy, bánh đậu xanh Hải Dương nổi tiếng, rồi trở thành đặc sản và hiệu Bảo Hiên Rồng Vàng trở thành một hiệu lớn của tỉnh Đông.


 


 




Bánh đậu xanh Hải Dương
Resort in Vietnam

Thứ Sáu, 14 tháng 11, 2014

Khu bảo tồn sinh quyển thế giới Cát Bà


Vị trí: Khu Bảo tồn sinh quyển thế giới Cát Bà nằm trên đảo Cát Bà, thuộc thị trấn Cát Bà, huyện Cát Hải, Tp. Hải Phòng.


Đặc điểm: Đây là một trong những khu bảo tồn sinh quyển thế giới.


Cát Bà là một quần đảo có tới 366 đảo lớn, nhỏ. Ðảo chính là Cát Bà rộng khoảng 100km², cách cảng Hải Phòng 30 hải lý, tiếp nối với vịnh Hạ Long, tạo nên một quần thể đảo và hang động trên biển làm mê hồn du khách. Đến đây du khách sẽ được tận hưởng không khí trong lành và hoà mình vào với thiên nhiên tươi đẹp.


Diện tích vườn quốc gia Cát Bà được quy hoạch bảo vệ là 15.200ha, trong đó có 9.800ha rừng và 4.200ha biển.


Ðịa hình vườn đa dạng, chủ yếu là dãy núi đá vôi với nhiều hang động kỳ thú và xen kẽ là những bãi cát trắng phau, mịn màng, nơi du khách tắm biển. Các ngọn núi đá vôi có độ cao trung bình 150m, cao nhất là đỉnh Cao Vọng cao 322m so với mặt biển


Theo một câu chuyện dân gian vùng Ðông Bắc, đảo Cát Bà khi xưa vốn là hậu cung của người đàn ông đầu tiên đến khai sơn phá thạch ở vùng này. Khi ông phát hiện ra cái vịnh quý giá với nhiều hòn đảo đẹp mà sau này có tên là Hạ Long, thì cũng là lúc ông phải cưu mang cùng lúc nhiều số phận nhi nữ đơn côi, mà chồng của họ đã vĩnh viễn không trở về sau những chuyến đi biển đầy bất trắc. Rồi để rảnh tay khai phá vùng Hòn Gai, Bãi Cháy, ông đã tập hợp tất cả các bà ra sống tại hòn đảo xinh đẹp, trù phú, biệt lập giữa biển khơi, nằm trong vịnh Lan Hạ. Vì thế, sau này vùng đất Bãi Cháy, Hòn Gai có tên là Ðất Của Ông, còn hòn đảo kia thì có tên là Ðảo Các Bà. Trải bao biến đổi, thăng trầm, bây giờ còn lại hai địa danh Cửa Ông (Quảng Ninh) và Cát Bà (Hải Phòng) là do gọi chệch đi mà thành.


Lại có câu chuyện khác gắn với lịch sử giữ nước của Việt Nam rằng, thời chiến đấu chống quân Nguyên xâm lược, người anh hùng dân tộc Trần Hưng Ðạo đã chọn vùng biển Ðông Bắc này làm nơi tập kết, luyện quân, tích trữ lương thảo. Những hang động trong vùng biển này đều được huy động vào việc cất giấu quân lương, che ém tàu thuyền của quân ta. Vì vậy, vùng biển phía Hạ Long được chọn làm khu vực quân sự – ngày nay còn có Hang Dấu Gỗ tương truyền là nơi quân ta cất dấu những chiếc cọc gỗ bịt sắt đã làm nên chiến thắng Bạch Ðằng lừng lẫy, còn vùng biển phía vịnh Lan Hạ là nơi tích trữ lương thảo, chăm sóc y tế, là khu vực do Các Bà cai quản. Vì thế mà có tên là Cửa Ðức Ông, Ðảo Các Bà, sau gọi chệch thành Cửa Ông, Cát Bà…


 




Khu bảo tồn sinh quyển thế giới Cát Bà
Resort in Vietnam

Thứ Năm, 13 tháng 11, 2014

Đền thờ Lý Thường Kiệt ở Hà Nam


Ngôi đền được dựng giữa khu rừng trúc rộng hàng chục mẫu, nên mang tên đền Trúc. Sau ngót ngàn năm, rừng trúc giờ không còn nguyên như xưa nữa, nhưng xung quanh đền, vẫn muôn ngàn bóng trúc. Những cây trúc thân vàng óng, thướt tha trong gió càng tôn cho phong cảnh nơi đây thêm thơ mộng. Với sự biến đổi của thời gian ngôi đền chỉ còn giữ được một số nét căn bản.


Ngôi đền được dựng bằng gỗ lim, cao trên 6m. Nhà tiền đường là một công trình 5 gian. Hệ thống vì kèo biến thể kiểu giá chiêng đồng rường con nhị xuất hiện vào cuối thế kỷ 17 và phổ biến vào cuối thế kỷ 19. Ba gian hậu cung được xây dựng cùng một phong cách với nhà tiễn đường, có 2 đầu bịt đốc, lợp ngói nam, xây bằng gạch thất, bắt mạch để trần. Trên hệ thống cửa có trạm trổ theo các đề tài tứ quí.


Về thăm đền Trúc, bạn đừng quên ghé vào Cuốn Sơn (nay gọi là núi Cấm) kề bên. Có lẽ vì gắn bó với điềm linh ứng năm xưa nên ngọn núi có ý nghĩa tâm linh với dân trong vùng. Cũng vì thế mà núi Cấm vẫn giữ được nhiều nét nguyên sơ với hệ sinh thái phong phú. Trên đỉnh núi Cấm có một bàn cờ thiên tạo bằng đá- nơi các vị tiên thường rủ nhau về mở hội, uống rượu chơi cờ và ngắm cảnh trần thế. Ngay cạnh bàn cờ còn có một ô vuông được gọi là huyệt đế vương. 


Núi Cấm còn có hệ thống hang động độc đáo: 5 hang nối liền nhau, tạo thành động liên hoàn, gọi là Ngũ Động sơn. Cấu trúc các động vô cùng đa dạng với nhiều loại thạch nhũ muôn hình vạn trạng, gợi cho du khách sức tưởng tượng phong phú: hình bầu sữa mẹ, nồi cơm mở vung, hình con voi, con rùa… Màu sắc, độ xốp, da nhũ… cũng khác nhau. Có nhũ ẩn sâu trong bóng tối, gặp ánh đuốc rọi vào bỗng rực lên như châu ngọc. Có nhũ mang hình chiếc trống nằm, trống treo, dàn mõ, mà thật đặc biệt, khi đánh lên, âm vang như thật.


Phong cảnh nên thơ, đặc sắc của núi Cấm đã từng làm nao lòng bao mặc khách tao nhân để làm nên sự lưu luyến bằng những bài thơ hay để lại cho đời. Ngày nay, đến thăm đền Trúc, ghé Ngũ Động Sơn, du khách sẽ như lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh để sang năm, lại muốn lạc bước tìm về.




Đền thờ Lý Thường Kiệt ở Hà Nam
Resort in Vietnam

Thứ Tư, 12 tháng 11, 2014

Một số tour du lịch mua sắm quốc tế điển hình được khai thác ở Việt Nam


Hồng Kông-Macau


3 ngày trọn gói


        Giá trọn gói:496 USD/người


Lịch trình:


Ngày 1: thành phố HCM-Hồng Kông-Macau


-        Tập trung tại sân bay Tân Sơn Nhất đi Hông Kông


-        Đến sân bay Hồng Kông, chuyển sang phà đi Macau


-        Đến Macau, tham quan một số di tích và tự do mua sắm


-        Ăn trưa và ăn tối tại nhà hàng địa phương


Ngày 2: Macau-Hồng Kông


-        Ăn sáng tại khách sạn, đi phà về Hồng Kông


-        Tham quan một số điểm du lịch


-        Ăn trưa tại nhà hàng nổi khổng lồ Jumbo nổi tiếng, ăn tối tại nhà hàng địa phương


-        Buổi tối tự do mua sắm tại chợ đêm “Lady Market”


-        Nghỉ ở khách sạn Metropole 4 sao hoặc khách sạn tương tự


Ngày 3:Hồng Kông-thành phố HCM


-        Ăn sáng tại khách sạn


-        Tham quan và mua sắm tại một số điểm du lịch như khu cảng biển Tsim Sha Tsui, Trung tâm tổ chức triển lãm và hội chợ quốc tế, xưởng sản xuất ngọc…


-        Ăn trưa tại nhà hàng địa phương


-        Buổi chiều mua sắm tự do tại các trung tâm thương mại lớn của Hồng Kông


-        Tập trung tại điểm quy định về Việt Nam


Thái lan


        3 ngày 2 đêm


        Giá trọn gói: 125 USD


        Lịch trình:


        Ngày 1: Thành phố HCM-Bangkok


-        Tập trung tại sân bay Tân Sơn Nhất đi Bangkok


-        Đến Bangkok, ăn tối nhẹ


-        Nghỉ tại khách sạn Eastin 4 sao hoặc khách sạn tương đương


        Ngày 2: Bangkok


-        Ăn sáng tại khách sạn, tham quan một vài điểm du lịch nổi tiếng như Hoàng cung và chùa Phật Ngọc


-        Ăn trưa tại Safari, đưa khách tới trung tâm Shopping Mall, khách tự do mua sắm


        Ngày 3 :Bangkok-thành phố HCM


-        Ăn sáng tại khách sạn, trả phòng


-        Đưa khách đến trung tâm mua sắm lớn nhất Bangkok để khách tự do mua sắm và ăn trưa


-        Về Việt Nam


Singapo


        3 ngày 2 đêm


        Giá trọn gói: 119 USD


        Lịch trình:


        Ngày 1: Thành phố HCM-Singapo


-        Tập trung tại sân bay Tân Sơn Nhất đi Singapo


-        Ăn tối, check in khách sạn. Khách tự do mua sắm đêm ở Singapo


Ngày 2: Singapo


-        Ăn sáng tại khách sạn. Đưa khách đến một số trung tâm mua sắm lớn ở Singapo. Khách tự do mua sắm và ăn trưa


-        Buổi chiều đưa khách đi thăm một số điểm du lịch trong thành phố như Vườn thú Quốc gia Singapo, Vườn chim Judong, công viên bách thảo


-        Ăn tối tại khách sạn


Ngày 3: Singapo-Thành phố HCM


-        Ăn sáng tại khách sạn


-        Ra sân bay về Việt Nam


                1.3.5 Một số tour du lịch mua sắm trong nước điển hình được khai thác ở Việt Nam




Một số tour du lịch mua sắm quốc tế điển hình được khai thác ở Việt Nam
Resort in Vietnam

Thứ Ba, 11 tháng 11, 2014

Đồng bằng sông Cửu Long – vùng đất của nắng và gió


Đồng bằng sông Cửu Long có một nền nhiệt độ cao và ổn định trong toàn vùng. Nhiệt độ trung bình 28 C. Chế độ nắng cao, số giờ nắng trung bình cả năm 2226-2709 giờ. Tổng hoà những đặc điểm khí hậuđã tạo ra ở Đồng bằng sông Cửu Long những lợi thế mang tính so sánh riêng biệt mà các nơi khác khó có thể có được, đó là một nền nhiệt độ, một chế độ bức xạ nhiệt, chế độ nắng cao và ổn định trong vùng.


Đồng bằng sông Cửu Long cũng là nơi ít xảy ra thiên tai do khí hậu đặc biệt là bão. Những đặc điêm khí hậu này đã tạo ra một nguồn lực rất thuận lợi cho sinh trưởng vàphát triển của sinh vật, tạo ra một thảm thực vật và một quần thể động vật phong phú đa dạng nhưng có tính đồng nhất tương đối trong toàn vùng. Chính vì vậy đó là những điều kiện thuận lợi để tổ chức sản xuất và phát triển sản xuất lương thực-thực phẩm, phat triển sản xuất chế biến sản phẩm nông-thủy-hải sản lớn nhất cả nước.Và cũng tạo ra các lợi thế so sánh khác của Đồng bằng sông Cửu Long


Đồng bằng sông Cửu Long lấy nước ngọt từ sông Mê kong và nước mưa. Cả hai nguồn này đều đặc trưng theo mùa một cách rỏ rệt.Lượng nước bình quân của sông Mê kong chảy qua Đồng bằng sông Cửu Long hơn 460 tỷ m3và vận chuyển khoảng 150-200 triệu tấn phú sa. Chính lượng nước và khối lượng phù sa đó trong quá trình bồi tụ đã tạo nên Đồng bằng Châu thổ phì nhiêu ngày nay.




Đồng bằng sông Cửu Long – vùng đất của nắng và gió
Resort in Vietnam

Thứ Hai, 10 tháng 11, 2014

Tuồng, hát bộ dân gian truyền thống của người dân Miền Trung


Cùng với chính sách thực dân của đế quốc Pháp, một luồng văn nghệ lãng mạn lan tới ViệtNam, ảnh hưởng đến mọi hình thức nghệ thuật dân tộc. Để chiều theo thị hiếu khán giả Hà thành đương thời, tuồng Bắc đã chuyển hướng từ những vở đề cao anh hùng nghĩa sĩ sang những vở trữ tình lãng mạn, phỏng theo các truyện cổ Trung Quốc như Tái sinh kỳ ngộ, Anh hùng náo,… Trong những năm 1925 – 1945, tuồng lại bị phân hóa một lần nữa trước sự bành trướng của cải lương Nam Bộ, tại Hà Nội. Sau thời kỳ diễn những vở trữ tình lãng mạn với quần áo thêu thùa cầu kỳ loè loẹt, với tên gọi tuồng cải cách (1900 – 1925), tuồng vẫn không đáp ứng được thị hiếu của khán giả Hà thành lúc đó đang ngưỡng mộ cải lương. Vì vậy, từ những năm 1930, tuồng cổ dần dần mất vị trí và khán giả nội thành, phải nhường chỗ cho tuồng Sài Gòn gọi là tuồng cải lương. Trong khi đó ở ven nội và ngoài thành, các gánh tuồng dân gian vẫn được khán giả nông thôn ưa chuộng. Các gánh, các phường tuồng Cổ Loa, làng Vàng (Cổ Bi) Gia Lâm, các phường tuồng ở dọc sông Hồng thuộc huyện Thanh Trì…vẫn giữ nguyên truyền thống xưa với những tích cổ điển không bị lai căng, phong cách và diễn xuất vẫn giữ những nét dân gian của luồng tuồng Bắc đã trên hai thế kỷ đối lập với hát bộ cung đình.


Tuồng, hát bộ dân gian truyền thống là một sân khấu ước lệ, tượng trưng. Tất cả những yếu tố trong tuồng như âm nhạc, múa hóa trang, phục trang…đều có tích cách điệu cao. Cũng như các sân khấu kịch hát dân tộc truyền thống khác, tuồng có hai lối biểu diễn bằng giọng điệu: nói và hát. Nhưng đặc biệt ở đây, vì nhu cầu sân khấu, các lối nói và hát không những phải tuân theo kỷluật của âm điệu, tiết điệu, mà còn phải chú trọng đến cách phát âm nữa. Diễn viên phải tùy theo hoàn cảnh và nhận xét để sáng tạo những âm sắc riêng cho từng câu, từng chữ. Tuồng Bắc rất chú trọng phần văn chương, dùng các loại văn xuôi văn vần và các thể thơ trong các vở hát. Tuồng còn là một loại kịch thơ phổ nhạc, được hát lên với sự hỗ trợ đắc lực của dàn nhạc và nhất là bộ gõ. Khi phường tuồng diễn ở sân đình, còn có trống chầu đặt trước sân khấu cho những người am hiểu nghệ thuật dùng để khen chê ngay đương trường. Nghệ thuật tuồng kết hợp ca hát với bộ điệu, vì vậy còn có tên là hát bộ. Múa trong tuồng là bộ điệu tượng trưng không giống như trong cuộc sống, nhằm biểu hiện cao độ nội tâm nhân vật, nhiều động tác đã cách điệu hóa tới mức thành những công thức có tính quy phạm.


 


Từ sau Cách mạng tháng Tám, nhất là từ sau ngày giải phóng Thủ đô (1954), tuồng truyền thống đã được phục hồi và phát triển với nhiều vở diễn có giá trị được công chúng hâm mộ. Bằng tiếng nói riêng của mình, tuồng truyền thống đã góp phần làm phong phú thêm các loại hình sân khấu Hà Nội. Tuy nhiên, qua thời gian thử thách, tuồng truyền thống vẫn tự khẳng định là một loại hình mạnh, có ưu thế đối với các đề tài lịch sử (cải biên hoặc sáng tác mới), còn với các đề tài hiện đại thì sân khấu tuồng còn phải tiếp tục cố gắng tìm tòi sáng tạo nhiều hơn nữa, mới có thể giành được sự tán thưởng của đông đảo công chúng Thủ đô.




Tuồng, hát bộ dân gian truyền thống của người dân Miền Trung
Resort in Vietnam

Chủ Nhật, 9 tháng 11, 2014

Núi Quyết, nơi chiêu quân Bắc tiến diệt gian thần, phá quân Thanh xâm lược


Ngọn núi này đã từng in dấu chân của cả vạn chiến binh dưới quyền thống lĩnh của Hoàng Đế Quang Trung trong cuộc Bắc phạt lần thứ hai. Đây cũng là linh địa mà La Sơn Phu Tử (Nguyễn Thiếp) giúp xây dựng Kinh đô trong tương lai. Đây là dấu tích Phượng Hoàng Trung Đô thuộc thành phố Vinh ngày nay. Chương trình xây dựng đang tiến hành thì bất ngờ vua Quang Trung băng hà, nên công trình bị bỏ dở. Ngày nay vẫn còn dấu tích bờ thành và các đồn lũy.


Theo tác giả Phan Sáng thì núi Dũng Quyết có 4 chi: Long Thủ (đầu Rồng), Phượng Dực (cánh Phượng), Kỳ Lân (con mèo), Quy Bối (con Rùa). Người xưa gọi địa thế này là đất tứ linh, bởi có đủ Long, Ly, Quy, Phượng. Đỉnh núi cao nhất 101,5 mét và thấp nhất 53,5 mét.Sông Vĩnh (Cồn Mộc) bắt nguồn từ dẫy núi Đại Huệ, có mười hai khúc quanh co, lững lờ chạy dưới chân núi Kỳ Lân, rồi đổ ra sông Lam nơi ngã ba Hạc. Dòng sông Lam như một con rồng xanh khổng lồ (Thanh Long), chảy từ thượng ngàn về đây uốn mình vòng quanh phía Đông-Nam chân núi Dũng Quyết, tạo nên một khu vực thiên nhiên có phong cảnh đẹp độc đáo.


Núi Bân, dấu tích thời Quang Trung tại Phú Xuân;


Khu Núi Bân được Bộ Văn Hóa Thông Tin công nhận là di tích lịch sử quốc gia vào năm 1988.Khi thực hiện đề tài khoa học “Khảo sát, sưu tầm và biên dịch những di sản văn hóa Hán Nôm hiện còn ở Thanh Hóa”, các nhà nhà nghiên cứu đã phát hiện bài thơ “Kiến Quang Trung linh cữu” trong tập “Liên KhêNamhành tạp vịnh” (gồm 200 bài thơ) của Lê Triệu. Qua “Kiến Quang Trung linh cữu”, có thể thấy ông Lê Triệu rất ngưỡng mộ, tôn kính vua Quang Trung. Tác giả bài thơ đã ca ngợi vua Quang Trung là bậc anh hùng và lên án Gia Long – Nguyễn Ánh tàn bạo như Tần Thủy Hoàng.


Hai câu thơ đầu :


“Trấp niên sấp sá tẩu phong vân. Như thử anh hùng cổ hãn văn” được tác giả mượn ý từ đôi câu đối ở đền thờ Quang Trung ở Do Xuyên, Hải Thanh, Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Đó là câu: “Anh hùng thanh sất Bân Sơn cổ. Miếu mạo quan lưu Bạng Hải kim” (Nghĩa là: Tiếng thét mắng (quân giặc) của người anh hùng ở núi Bân còn rực sáng để lại ở bến Lạch Bạng ngày nay).


Đôi câu đối trên nhắc lại sự kiện cuối năm 1788, Nguyễn Huệ lập đàn ở núi Bân (Huế), làm lễ cáo trời đất để lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung. Tại đây, trước khi hành quân thần tốc ra Bắc Hà, nhà vua đã thét mắng (sất sá) quân xâm lược Mãn Thanh. Những câu thơ tiếp theo, tác giả ám chỉ sự trả thù của nhà Nguyễn đối với nhà Tây Sơn và Quang Trung nói riêng. Theo đó, năm 1802, sau khi lên ngôi, Gia Long đã thực hiện cuộc “tắm máu” cực kỳ tàn khốc. Không chỉ “đào mồ, cuốc mả”, “tru di tam tộc” đối với dòng họ, con cháu vua Quang Trung, ngay cả những trung thần, tướng sĩ, quan lại của triều Tây Sơn cũng bị nhà Nguyễn trả thù.


Câu cuối của bài thơ 


“Linh nhân chung cổ tiểu Doanh Tần!” cũng chính là lời tố cáo đanh thép đối với nhà Nguyễn, đồng thời cho thấy tình cảm sâu nặng của tác giả đối với Quang Trung.Không những thế, có thể nói, “Kiến Quang Trung linh cữu” còn là một tư liệu lịch sử có giá trị.


Như chúng ta đã biết, trong “chiến dịch trả thù”, Gia Long – Nguyễn Ánh đã cho quật cả lăng mộ của vua Quang Trung và san bằng tất cả.


Sách “Đại Nam Chính biên liệt truyện” (Quốc sử quán triều Nguyễn) có chép: “Mùa đông năm ấy (1802), vua về Kinh, cáo tế ở miếu, dâng những tù bắt được đem hết phép trừng trị, đào mộ Nhạc, mộ Huệ, đem giã hài cốt vất đi, giam đầu lâu ở nhà ngục, đổi ấp Tây Sơn gọi là ấp Tây An”. 


Vì vậy, hơn nửa thế kỷ qua, nhiều nhà nghiên cứu sử học, khảo cổ học; nhiều cuộc hội thảo về lăng mộ vua Quang Trung đã được tổ chức nhằm làm sáng tỏ sự thật, xác định rõ vị trí thực sự của lăng mộ nhà vua. Ngay từ năm 1941, nhà nghiên cứu Nguyễn Thiệu Lâu đã thực hiện cuộc khảo sát thực địa ở phía Nam kinh thành Huế và công bố bài viết “Lăng hoàng đế Quang Trung”. Sau đó là hàng loạt công trình, tư liệu, bài viết của các nhà nghiên cứu: Lê Văn Hoàng, Bửu Kế, Nguyễn Hữu Đính, Phan Thuận An, Trần Đại Vinh, Nguyễn Đắc Xuân, Đỗ Bang, Mai Khắc Ứng…


Dù có những chi tiết và ý kiến trái ngược nhau, song tựu trung, hầu hết các nhà nghiên cứu đều tập trung dự đoán khả năng vị trí lăng mộ vua Quang Trung là ở khu vực lăng Ba Vành (nằm ở phía nam tu viện Thiên An – Huế) và khu vực gò Dương Xuân (phủ Dương Xuân, sau đó là cung điện Đan Dương).


Thật bất ngờ là qua bài thơ “Kiến Quang Trung linh cữu”, tác giả Lê Triệu cho biết, ông đã từng đến viếng lăng mộ vua Quang Trung và tỏ lòng đau xót, phẫn nộ khi lăng mộ Quang Trung bị Gia Long – Nguyễn Ánh phá hủy (Quang cảnh nhất ban thành phấn mị). Đáng lưu ý, vị trí lăng mộ vua Quang Trung được tác giả xác định cụ thể là ở trên một ngọn núi có tên là Khuân Sơn.


Vậy Khuân Sơn là ngọn núi nào, ở đâu? 


Theo tư liệu trang 133 sách “Đại Nam Nhất thống chí” (tập 1) có chép: “Núi Khuân Sơn ở phía Nam huyện Phong Điền (Thừa Thiên Huế – NV), có tên nữa là Thượng Sơn, vì hình núi tròn như vựa thóc, thượng lưu sông Phong Điền chảy về phía tây, có một con đường theo ven núi chạy về bắc, đi theo về phía Tây có thể đến đất người Man Thượng.




Núi Quyết, nơi chiêu quân Bắc tiến diệt gian thần, phá quân Thanh xâm lược
Resort in Vietnam

Thứ Bảy, 8 tháng 11, 2014

Thủy cung Trí Nguyên (Hồ cá Trí Nguyên), Nha Trang


Thủy Cung Trí Nguyên là địa điểm tham quan du lịch tại đảo Hòn Miễu thuộc vịnh Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa


Ðảo Cá ở Nha Trang thuộc vịnh Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa còn gọi là Hòn Miễu, đảo Bồng Nguyên. Hòn Miễu là đảo gần bờ nhất trong số các hải đảo ở Nha Trang, chỉ mất hai mươi phút bằng thuyền máy là đến nơi. Trên đảo có hai địa điểm tham quan du lịch là hồ cá Trí Nguyên và bãi tắm Bãi Sỏi.


heo mô hình là một con tàu ma được xây từ năm 1971. Ðây cũng là một điểm hấp dẫn vì được xây dựng theo mô hình một con tàu hóa thạch dài 60 m, cao 30 m nằm dưới biển, ven bờ hải đảo, đứng từ xa cũng có thể nhìn rõ thủy cung này. Thủy cung Trí Nguyên là bộ sưu tập các loài cá biển và thực vật biển , sinh vật biển theo mô hình mở. Để phát huy hết nguồn lực nơi đây mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người, năm 1997, Công ty Du lịch Khánh Hòa đã đầu tư 10 tỷ đồng để xây dựng Thủy cung Trí Nguyên theo thiết kế khá độc đáo dạng một con tàu cổ. Trong con tàu được chia thành các tầng: tầng trệt có hồ nuôi cá; tầng 2 là nơi bán hàng lưu niệm, mỹ nghệ và nhà hàng nằm ở tầng 3. Trên boong tàu là cột buồm và khẩu súng thần công, đây cũng là vị trí lý tưởng để ngắm nhìn biển từ trên cao.


Hồ cá ở đây được ngăn bằng hệ thống kè đá san hô đủ cao để mực nước trong hồ bao giờ cũng ngang với mực nước biển. Giữa các hồ cá là những lối đi rộng được lát bằng đá núi hoặc bê-tông. Phần lớn các hồ cá có diện tích 150 – 200 m2. Hồ lớn nhất và nuôi nhiều loại cá nhất rộng đến 3 ha. Chung quanh hồ, dọc theo đường đi còn trồng nhiều loại cây như sứ trắng, hoàng lan, phi lao, bàng lá tròn… Hệ thống hồ cá ở đây chia làm 2 dạng : ngoài trời và trong nhà. Nếu tính từ bờ đi vào, hồ cá lộ thiên là nơi nuôi đủ các loại cá quen thuộc như cá thu, cá ngừ, cá nục, cá đuối… ẩn mình trong hang đá là những chú mực, tôm hùm khổng lồ, có con nặng đến 3 kg.


Hồ trong nhà nhỏ hơn hồ lộ thiên, cá cũng nhỏ hơn nhưng thuộc loại đắt tiền nhất. Ðó là các loại cá cảnh với đủ mầu sắc độc đáo. Hồ thứ ba có thể nói là hồ độc đáo nhất. Ðây là hồ nuôi đồi mồi, rùa biển. Có những con rùa nặng hơn 100 kg và lớp mai trên lưng có đường kính 1,5 m phủđầy rong rêu, sò ,ốc bám vào. Du khách chỉ cần ngồi trên kè đá dùng đôi chân khuấy nhẹ mặt nước hay thả vài mẩu bánh mì là có thể nhìn thấy cả một đàn đồi mồi hay rùa biển tụ lại.


Hồ thứ tư rộng mênh mông, tiếp giáp với chân đồi và bãi biển. Hồ này nuôi đủ loại cá biển từ loại nhỏ xíu như cá cơm cho đến loại cá nặng vài ba tạ. Ðây là hồ cá mà trẻ con ưa thích nhất bởi những bầy cá gỗ được đẩy tới bằng sức đạp, đạp ra giữa hồ để ngắm nhìn thỏa thích đủ loại cá nhởn nhơ bơi lội dưới nước.


Nằm cách hồ cá Trí Nguyên chừng vài trăm mét bằng cách băng ngang qua đảo. Gọi là Bãi Sỏi vì bãi tắm ở đây không hề có cát mà chỉ thấy toàn sỏi đá, tròn vo, nhẵn thín từ bờ chạy ra biển nước trong xanh nhìn thấy đáy. Bãi Sỏi còn giữ được nguyên vẻ hoang sơ, trước mặt là biển, sau lưng là khu rừng nguyên sinh với nhiều đại thụ và dây leo chằng chịt.




Thủy cung Trí Nguyên (Hồ cá Trí Nguyên), Nha Trang
Resort in Vietnam

Thứ Sáu, 7 tháng 11, 2014

Vị trí địa lý tỉnh Khánh Hòa


Tỉnh Khánh Hòa ở về phía khu vực duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam, phía Bắc giáp ba huyện Sông HinhĐông Hòa và Tây Hòa của tỉnh Phú Yên, phía Tây giáp hai huyện M’Drăkvà Krông Bông của tỉnh Đắk Lắk, phía Nam giáp huyện Bác Ái và Thuận Bắc của tỉnh Ninh Thuận, phía Tây Nam giáp huyện Lạc Dương của tỉnh Lâm Đồng, phía Đông giáp Biển Đông. Tỉnh lỵ của Khánh Hòa là thành phố Nha Trang, cách Thành phố Hồ Chí Minh 447 km và cách thủ đô Hà Nội 1.278 km đường bộ


Là một tỉnh nằm sát dãy núi Trường Sơn, đa số diện tích Khánh Hòa là núi non, miền đồng bằng rất hẹp, chỉ khoảng 400 km², chiếm chưa đến 1/10 diện tích toàn tỉnh. Miền đồng bằng lại bị chia thành từng ô, cách ngăn bởi những dãy núi ăn ra biển. Do đó để đi suốt dọc tỉnh phải đi qua rất nhiều đèo như đèo Cả, đèo Cổ Mã, đèo Chín Cụm, đèo Bánh Ít, đèo Rọ Tượng, đèo Rù Rì.


Khánh Hòa là một trong những tỉnh có đường bờ biển đẹp của ViệtNam. Đường bờ biển kéo dài từ xã Đại Lãnh tới cuối vịnh Cam Ranh, có độ dài khoảng 385 km tính theo mép nước với nhiều cửa lạch, đầm, vịnh, cùng khoảng 200 đảo lớn, nhỏ ven bờ và các đảo san hô của quần đảo Trường Sa. Khánh Hòa có sáu đầm và vịnh lớn, đó là Đại Lãnh, vịnh Vân Phong, Hòn Khói, vịnh Nha Phuvịnh Nha Trang (Cù Huân) và vịnh Cam Ranh. Trong đó có nổi bật nhất vịnh Cam Ranh với chiều dài 16 km, chiều rộng 32 km, thông với biển thông qua eo biển rộng 1,6 km, có độ sâu từ 18-20 m, và thường được xem là cảng biển có điều kiện tự nhiên tốt nhất Đông Nam Á, trước đây được sử dụng làm căn cứ quân sự của Hoa Kỳ rồi Liên Xô (sau này là Nga) nhưng nay đã được chuyển thành cảng dân sự.


Khánh Hòa là một trong những tỉnh có nền kinh tế phát triển nhanh và vững của ViệtNam. Tăng trưởng GDP của tỉnh trong năm 2009 là 10,2%, cao gần gấp đôi so với ViệtNamDịch vụ - du lịch chiếm 43,32% cơ cấu kinh tế, công nghiệp - xây dựng là 41,71%, còn nông - lâm - thủy sản chiếm 14,97%. GDP bình quân đầu người là 20,44 triệu đồng tương đương 1.200 USD cao hơn mức bình quân chung của ViệtNam. Thu nhập bình quân đầu người ước tính 9,8 triệu đồng/năm, và là 1 trong 5 tỉnh, thành phố có thu nhập bình quân đầu người cao nhất nước





Vị trí địa lý tỉnh Khánh Hòa
Resort in Vietnam

Thứ Năm, 6 tháng 11, 2014

Tháp Pokrong Giarai tại Phan Rang


Tọa lạc trên ngọn đồi trầu, cách thành phố Phan Rang- Tháp Chàm 9km. Tháp được xây dựng vào cuối thế kỷ 13 đầu thế kỷ 14 thờ vua Poklong Giarai (1151- 1205), một vị vua có công với dân với nước, được người dân suy tôn là thần thủy lợi.


Tháp Poklong Giarai là một tổng thể kiến trúc nghệ thuật, bao gồm ba ngôi tháp: tháp chính cao 20.5m bên trong có thờ tượng bò nandin bằng đá; tháp cổng cao 8.56m; tháp lửa cao 9.31m. Ngoài ra còn một ngôi miếu nhỏ ở sau tháp chính và một vòng thành bao quanh tháp.


Tháp được trùng tu vào các năm:


Năm 1981: tu sửa phục hồi phần di tích đổ vỡ.


Năm 1983: phục hồi, gia cố móng và chân tháp đã hỏng 1/3.


Năm 1984: tu sửa phục hồi tháp chính.


Năm 1985: tu sửa 3 tháp.


Năm 1987: phục hồi bức tường đổ do các chuyên gia Ba Lan phụ trách.


Theo truyền thuyế thì tháp này do vua Chăm Poklong Giarai chỉ đảo xây dựng trong cuộc thi xây tháp với Pô Dam, vị quan đại thần không khâm phục vua Poklong Giarai. (Trong cuộc thi này vua Poklong Giarai thắng vì xây tháp xong trước, nhưng việc thắng cuộc này do vua Poklong Giarai dùng kế. Ông cho xây tháp giả bằng giấy và sơn màu lên).


Poklong Giarai (sinh 1151, mất 1205) là vua của ngưới Chăm, có công trong việc xây dựng thủy lợi, phát triển nông nghiệp. Ông xuất thân từ đứa trẻ nghèo, mố côi. Theo truyền thuyết thì ông được thần Rồng phù hộ, giúp đỡ để trở thành một ông vua dầy tài năng và công đức của vương quốc Champa.


Tại đây hàng năm nhân dân người chăm tổ chức lễ hội Kate từ ngày 10-13/10 theo Chăm lịch.


Lễ hội Katê


Thời gian:Ngày 1 tháng 7 theo lịch Chăm (khoảng 25/9 – 5/10 dương lịch) 


Địa điểm: đền tháp Pô Nagar (thôn Hữu Đức), tháp Pô Klông Garai (phường Đô Vinh, tháp Chàm), tháp Pô Rôme (thôn Hậu Sanh), tỉnh Ninh Thuận. 


Đối tượng tôn vinh: các vị Nam thần: Pô Klông Garai, Pô Rôme. 


Lễ hội Katê của người Chăm diễn ra trong 3 ngày trên một không gian rộng lớn, lần lượt từ đền tháp (Bi môn, Ka lan) đến làng (Paley) và từng gia đình (Nga wôm), tạo thành một dòng chảy phong phú, đa dạng.


 




Tháp Pokrong Giarai tại Phan Rang
Resort in Vietnam

Thứ Tư, 5 tháng 11, 2014

Đồ đội đầu (tanrak) của đàn ông Chăm


Đồ đội đầu của đàn ông Chăm chủ yếu là khăn. Người đàn ông bình dân thì sử dụng khăn dệt trơn bằng vải thô trắng và đàn ông quí tộc thì đội khăn có dệt hoa văn hình quả trám cùng màu trắng phủ kín lên mặt vải. Ngoài khăn đội đầu người đàn ông Chăm còn có khăn vắt vai, túi nhỏ đeo vai và túi đựng thuốc hút.


Cách đội khăn của Chăm là quấn vòng lên đầu từ phía sau ra phía trước, rồi thả hai mép gập lại, buông chùn xuống ở gần hai tai. Đối với người đàn ông trẻ tuổi thì không đội khăn mà chỉ vắt khăn chéo qua vai. Cũng như phụ nữ Chăm, ngày nay việc đội khăn truyền thống chỉ có ở người đàn ông lớn tuổi, còn giới trẻ thì đội nón, chỉ còn đội khăn truyền thống trong những dịp lễ hội.


Trang phục chức sắc tôn giáo, tín ngưỡng Chăm:


Trang phục tu sĩ Bàlamôn Chăm:


Tu sĩ Chăm Bàlamôn gọi là paseh, họ chuyên phục vụ các lễ nghi cúng tế cho tín đồ Chăm theo Bàlamôn như các lễ nghi đền tháp, đám tang, lễ nhập kút… Hàng ngũ tu sĩ paseh có nhiều thứ bậc khác nhau như paseh đung akuak (tu sĩ mới tập sự), paseh lyah (cấp thứ hai), paseh luah (cấp thứ ba), pô bac (phó cả sư) và cuối cùng là pô Adhia (chức cả sư)- người giữ chức vụ cao nhất trong hàng ngũ paseh.


Tầng lớp paseh này có sắc phục riêng và mỗi cấp bậc của tu sĩ paseh đều thể hiện những chi tiết khác nhau trên bộ phận của trang phục. Pô Adhia (cả sư) mặc áo trắng, mặt váy, buột dây lưng và khăn đội đầu. Áo pô Adhia là loại vải màu trắng, mặc dài qua đầu gối, dệt bằng vải thô không có hoa văn, vải may thụng được ghép lại bởi 6 mảnh vải (hai mảnh vải thân trước, hai mảnh vải thân sau, hai mảnh vải ống tay): áo không xẻ tà, không mặc chui đầu mà khi mặc hai phần thânđược xếp chồng lên nhau, rồi buột dây vải ở hông và gần phía ngực trái. Áo này người Chăm gọi là áo “Aw tikuak”.




Đồ đội đầu (tanrak) của đàn ông Chăm
Resort in Vietnam

Thứ Ba, 4 tháng 11, 2014

Tháp Poshanư, địa danh cổ của người Chăm


Nhóm đền tháp Chăm Pôshanư tọa lạc trên đồi Bà Nài thuộc xã Phú Hải về phía Đông – Bắc cách thành phố Phan Thiết chứng 7km được người Chăm xây dựng từ những cuối thế kỷ VIII đầu thế kỷ IX thuộc phong cách kiến trúc nghệ thuật Hoà Lai – một trong những phong cách nghệ thuật cổ của Vương quốc Chămpa, mà hiện nay những ngôi tháp này còn lại rất ít như một số phế tíchở khu thánh điạ Mỹ Sơn, còn lại nhóm Hoà lai (Phan Rang) nhóm Pôdam (Tuy Phong – Bình Thuận) và tương đối nguyên vẹn là nhóm đền tháp Pôshanư.


Nhóm tháp gồm có 3 tháp : Tháp chính A hơi nhếch về phía Nam, hai tháp phụ là B hơi nhếch về phiá Bắc và C nhếch về  hướng Đông cạnh tháp A. Nội dung của việc xây dựng nhóm tháp trong giai đoạn lịch sử này để thờ thần Shiva ( một trong những vị thần Ấn độ giáo được người Chăm sùng bái, tôn kính) biểu hiện bằng bệ thờ Linga-Yôni bằng đá hiện còn lưu giữ tại  tháp chính. Đến thế kỷ XV người Chăm tiếp tục xây dựng một số đền thờ dạng kiến trúc đơn giản để thờ  công chúa Pôshanư, tương truyền là con vua ParaChanh được nhân dân yếu quý về tài đức và phép ứng xử của Bà đối với người Chăm đương thời. Những cuộc khai quật khảo cổ học từ 1992-1995 đã phát hiện nhiền nền móng của những ngôi đền bị sụp đổ và bị vùi lấp  hàng trăm năm nay, cùng với gạch ngói và một số hiện vật trong lòng các đền tháp có niên đại từ thế kỷ XV. Từ đây tháp có tên gọi là Pôshanư.


Pôshanư là nhòm đền tháp Chăm có vai trò quan trọng trong số các di tích kiến trúc Chăm ở Bình Thuận, từ hình dạng kiến trúc đến kỹ thuật xây dựng và trang trí nghệ thuật trên thân tháp, các vòm cuốn, các cửa chính, cửa giả, trong lòng và lên đến đỉnh tháp. Riêng kỹ thuật xây dựng và trang trí nghệ thuật còn lại ở thân Tháp đủ gợi lên yếu tố thẩm mỹ khá riêng biệt của phong cách Hoà Lai.




Tháp Poshanư, địa danh cổ của người Chăm
Resort in Vietnam

Thứ Hai, 3 tháng 11, 2014

Lịch sử cây cao su ở Việt Nam


Đến năm 1920, miền Đông Nam Bộ có khoảng 7.000 ha và sản lượng 3.000 tấn.


Cây cao su được trồng thử ở Tây Nguyên năm 1923 và phát triển mạnh trong giai đoạn 1960 – 1962, trên những vùng đất cao 400 – 600 m, sau đó ngưng vì chiến tranh.


Trong thời kỳ trước 1975, để có nguồn nguyên liệu cho nền công nghiệp miền Bắc, cây cao su đã được trồng vượt trên vĩ tuyến 170 Bắc (Quảng TrịQuảng BìnhNghệ AnThanh HóaPhú Thọ). Trong những năm 1958 – 1963 bằng nguồn giống từ Trung Quốc, diện tích đã lên đến khoảng 6.000 ha


Năm 2007 diện tích Cao Su ở Đông Nam Bộ (339.000 ha), Tây Nguyên (113.000 ha), Trung tâm phía Bắc (41.500 ha) và Duyên Hải miền Trung (6.500 ha).hiện nay vào khoảng tháng 05/2010 có một số bệnh lạ khiến người dân khốn khổ, bệnh bắt đầu có biểu hiện như, nhẹ thì vàng lá .nặng hơn một chút thì rụng lá rồi chết mà cách đặc trị thì chưa thực sự hiệu quả.


Cây cao su còn độc ngay cả trong việc trao đổi khí ngay cả ban ngày và ban đêm. Không bao giờ xây dựng nhà để ở trong rừng cao su, khả năng hiếm khí xảy rất cao.


Cây cao su được người Pháp đưa vào ViệtNamlần đầu tiên tại vườn thực vật Sài Gòn năm 1878 nhưng không sống.


Đến năm 1892, 2000 hạt cao su từ Indonesia được nhập vào Việt Nam. Trong 1600 cây sống, 1000 cây được giao cho trạm thực vật Ong Yệm (Bến Cát, Bình Dương), 200 cây giao cho bác sĩ Yersin trồng thử ở Suối Dầu (cách Nha Trang 20 km).


Năm 1897 đã đánh dầu sự hiện diện của cây cao su ở ViệtNam. Công ty cao su đầu tiên được thành lập là Suzannah (dầu Giây, Long Khánh, Đồng Nai) năm 1907. Tiếp sau, hàng loạt đồn điền và công ty cao su ra đời, chủ yếu là của người Pháp và tập trung ở Đông Nam Bộ : SIPH, SPTR, CEXO, Michelin … Một số đồn điền cao su tư nhân Việt Nam cũng được thành lập.


 




Lịch sử cây cao su ở Việt Nam
Resort in Vietnam

Chủ Nhật, 2 tháng 11, 2014

Tìm hiểu về Sông Đồng Nai


Ở hạ lưu thác Trị An, lại nhận thêm nhánh sông Bé với diện tích lưu vực 8.200km2. Đại bộ phận các lưu vực này là đất phong hóa từ đá bazan có độ phì cao và có khả năng giữ độ ẩm đủ chocây trồng trong mùa khô. Độ cao của các lưu vực thay đổi từ 80 đến 200m. Sau khi qua thác Trị An, sông Đồng Nai đi vào đỉnh tam giác châu và trở nên rất thuận lợi cho giao thông thủy. Về phía tây lưu vực có sông Sài Gòn bắt nguồn từ cao nguyên Hớn Quản chảy song song với sông Bé và đổ vào sông Đồng Nai. Từ thượng nguồn đến hợp lưu với sông Sài Gòn, dòng sông chính dài khoảng 530 km. Đoạn sông Đồng Nai từ đó đến chỗ gặp sông Vàm Cỏ có tên là sông Nhà Bè. Đoạn này dài khoảng 34 km. Sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ chảy trong đồng bằng thấp nên thủy triều ảnh hưởng lên đến tận nguồn. Cũng có ý kiến cho rằng sông Vàm Cỏ trước đây là phân lưu của sông Cửu Long, về sau sông chuyển dòng về phía tây nam.


Hệ thống phân lưu ở cửa sông Đồng Nai rất phức tạp giữa vùng cửa Xoài Rạp và mũi Ô Cấp hai bên bán đảo Cần Giờ, với những diện tích rộng lớn chằng chịt rừng tràm, rừng đước.


Toàn bộ chiều dài sông Đồng Nai đến cửa Xoài Rạp ước khoảng 586km, diện tích lưu vực cho đến ngã ba Lòng Tàu là 29.520 km2. Độ dốc trung bình của lưu vực là 0,064. Mật độ lưới sông thay đổi từ 0,64 km/km2 đến xấp xỉ2 km/km2.


Nguồn tài nguyên nước phong phú. Lưu vực sông Đồng Nai có lượng mưa tương đối phong phú với trung tâm mưa lớn nhất tại Bảo Lộc trên cao nguyên Di Linh. Lượng mưa đạt tới2.876 mm mỗi năm. ở thượng nguồn lưu vực phía nam cao nguyên Lang Biang, lượng mưa vào loại trung bình: 1.300 mm đến 1.800 mm. Sau cao nguyên Di Linh, lượng mưa có giảm, nhưng vẫn còn phong phú từ 2.000 đến2.300 mm.


Tính trung bình, hằng năm trên lưu vực lượng mưa đạt xấp xỉ 2.300 mm. Mùa mưa trên lưu vực bắt đầu từ tháng V và kết thúc vào tháng XI. Có một số vùng mùa mưa bắt đầu sớm hơn, từ tháng IV, như Đà Lạt, Liên Khương, Di Linh, Bảo Lộc.


    Tháng có lượng mưa lớn nhất thay đổi theo vùng, có nơi là tháng VII, tháng VIII, có nơi là tháng X. Trong biến trình lượng mưa tháng trong năm có một số vùng thể hiện thêm một cực đại vào tháng V, nhấtlà ở vùng phía nam cao nguyên Lang Biang.


    Lượng mưa phong phú đã cung cấp một lượng nước mặt phong phú. Hằng năm, lưu vực sông Đồng Nai, không kể hai sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ, tải ra biển khoảng trên 22 tỷ m3 nước, ứng với môđun dòng chảy khoảng 30 l/s.km2. Tuy nhiên, dòng chảy phân bố trên lưu vực rất khác nhau. Lưu vực sông La Ngà có dòng chảy phong phú nhất, đạt xấp xỉ 40 l/s.km2. Lưu vực sông Bé có dòng chảy trung bình, đạt xấp xỉ 30 l/s.km2. Vùng thượng nguồn sông Bé, sông Đồng Nai có dòng chảy nhỏ hơn hết, chỉ đạt 20 – 15 l/s.km2. Cá biệt có nơi như lưu vực Đa Quyn dòng chảy năm chỉ đạt xấp xỉ 18 l/s.km2.


 


 




Tìm hiểu về Sông Đồng Nai
Resort in Vietnam

Thứ Bảy, 1 tháng 11, 2014

Cầu Rạch Chiếc ở Thành phố Hồ Chí Minh


Cầu Rạch Chiếc nằm trên Xa lộ Hà Nội nối liền quận 2 và quận 9, TP.HCM được xây dựng cùng thời với cầu Sài Gòn và xa lộ Biên Hòa (1959- 1961), dài 148,9m. Đây tuy là chiếc cầu nhỏ nhưng là nhân chứng lịch sử cho một sự kiện lịch sử quan trọng góp phần làm rạng rỡ cho chiến dịch Hồ Chí Minh. Vào ngày 17/4/1975, tại chân cấu này đã xảy ra liên tục năm trận đánh giữa quân Giải phóng và lính chế độ Sài Gòn bảo vệ cầu ( vì đây là diểm yếu nhất của xa lộ Biên Hòa). Cuối cùng, quân Giải Phóng đã chiếm dược cầu Rạch Chiếc nhưng 59 chiến sỹ cách mạng đã hi sinh tại đây để dành đường lưu thông an toàn cho quân giải phóng tiến vào Sài Gòn.


Do phương tiện qua lại nhiều và cầu đã xuống cấp nghiêm trọng nên dự án cầu Rạch Chiếc mới đã được khởi công xây mới vào ngày 19/9/2009.


Theo thiết kế, tổng chiều dài công trình 735,8m, trong đó phần cầu dài 295m, đường dẫn phía TP.HCM dài 225,06m và đường dẫn phía Biên Hòa dài 215,8m. Tĩnh không thuyền là 40m. Cầu được xây dựng với tuổi thọ 100 năm.


Khi được đưa vào sử dụng sẽ có 10 làn xe chạy gồm 3 nhánh cầu riêng biệt, hai nhánh biên với chiều rộng mỗi nhánh là 9,8m; nhánh giữa rộng 26,5m. Tổng mức đầu tư của dự án hơn 1.000 tỷ đồng.


Dự án do Tổng Công ty xây dựng Thăng Long (thi công nhánh bên trái) và Tổng Công ty Xây dựng công trình giao thông 1 (thi công nhánh bên phải) làm nhà thầu thi công.


Theo Khu quản lý giao thông đô thị số 2, giai đoạn 1 (2009 – 2010) của dự án sẽ thi công 2 nhánh cầu biên ở hai bên cầu Rạch Chiếc hiện hữu. Sau đó, đến giai đoạn 2 (2011 – 2013) sẽ xây dựng làn xe giữa rộng 26,5m.




Cầu Rạch Chiếc ở Thành phố Hồ Chí Minh
Resort in Vietnam